TÀI LIỆU CƠ BẢN
LIÊN HIỆP VƯƠNG QUỐC ANH VÀ BẮC AI-LEN
I. Thông tin cơ bản:
Tên nước: Liên Hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (gọi tắt là Anh)
United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland
Thủ đô: Luân-đôn (London)
Quốc khánh: Ngày 11/6 (Kỷ niệm chính thức ngày sinh Nữ Hoàng Elizabeth II)
Vị trí địa lý: Quốc đảo nằm ở Tây Âu, nằm giữa Bắc Đại Tây Dương và Biển Bắc.
Diện tích: 243.610km2 (diện tích đất liền 241.930km2; diện tích biển 1.680km2)
Khí hậu: Ôn đới
Dân số: 63.047.162 người (2011), đông dân thứ 22 trên thế giới và thứ 3 trong EU (sau Đức và Pháp).
Dân tộc: Anh 83,6%; Scotland 8,6%; xứ Wales 4,9%; Bắc Ai-len 2,9%; da màu 2%; Ấn Độ 1,8%
Ngôn ngữ: Tiếng Anh, ngoài ra có các tiếng địa phương như tiếng Scottish tiếng Welsh, tiếng Ai-len, tiếng Cornish
Đơn vị tiền tệ: Bảng Anh (Pound GBP)
GDP: 2.481 tỷ đô-la (2011), tăng trưởng GDP 1,1 % (2011)
Thu nhập
bình quân
đầu người: 35.900 đô-la (2011)
Tôn giáo: 71,6% Thiên Chúa giáo, 2,7% Hồi giáo, Ấn Độ giáo 1%,
Lãnh đạo chủ chốt:
- Nguyên thủ quốc gia: Nữ hoàng Ê-li-da-bét Đệ nhị (Elizabeth II) (sinh ngày 21/4/1926, lập gia đình ngày 20/11/1947, lên ngôi ngày 6/2/1952, đăng quang ngày 2/6/1953, kỷ niệm ngày sinh chính thức vào một ngày thứ 7 trong tháng 6).
- Thủ tướng: ông Đây-vít Ca-mơ-run (David Cameron), (lãnh tụ Đảng Bảo thủ , cầm quyền từ tháng 5/2010).
- Ngoại trưởng: ông Uy-li-am Ha-gơ (William Hague), (Đảng Bảo thủ, bổ nhiệm từ tháng 5/2010).
- Chủ tịch Thượng viện : bà Huân tước Phờ-răng-sét Đờ-xu-da (Frances D’Souze), (từ ngày 1/9/2011).
- Chủ tịch Hạ viện: ông Dôn Bơ-cau (John Bercow), (Đảng Bảo thủ, từ ngày 18/5/2010).
II. Khái quát lịch sử:
Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai len bao gồm 4 xứ: Anh (England, thủ đô London, dân số 51.446.000 người), Xứ Gan (Wales, thủ đô Cardiff, dân số 2.993.000 người), Xcốt-len (Scotland, thủ đô Edinburgh, dân số 5.169.000 người) và Bắc Ai-len (Northern Ireland, thủ đô Belfast, dân số 1.775.000 người); mỗi xứ có lịch sử và văn hoá riêng.
Các mốc chính trong lịch sử:
43-409 Bị người La Mã chiếm đóng
450 Người Bắc Âu xâm chiếm và hình thành các Vương quốc Anglo-Saxon
597 Bắt đầu sự xâm nhập của Thiên Chúa giáo
789 Bắt đầu các cuộc tấn công của người Viking
1017-1042 Triều đại của người Viking gốc Đan Mạch
1066 Người Norman xâm chiếm, du nhập tiếng Pháp vào giới quí tộc Anh
1337 Cuộc chiến tranh kéo dài hàng trăm năm giữa Anh và Pháp bắt đầu
1547 Tin Lành trở thành Quốc đạo ở Anh
1707 Đạo luật hợp nhất Anh và Xcốt-len
1760 - 1830 Cách mạng Công nghiệp ở Anh
1775 - 1783 Thất bại trong cuộc chiến thuộc địa tại Mỹ
1800 Đạo luật hợp nhất Anh và Bắc Ai-len
1947 Với việc Ấn độ và Pakistan giành độc lập, Đế chế Anh bắt đầu tan vỡ
1973 Anh gia nhập EEC (nay là Liên minh châu Âu-EU)
III. Thể chế nhà nước, chế độ chính trị, đảng phái chính trị:
Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai len là nước quân chủ lập hiến, có hệ thống luật pháp theo mô hình Luật án lệ. Các thể chế chính trị chính:
1. Nữ hoàng: là Nguyên thủ quốc gia, đứng đầu Cơ quan Lập pháp và Hành pháp, Tổng tư lệnh tối cao các lực lượng vũ trang và là người đứng đầu Giáo hội Anh. Trên thực tế, quyền lực của Nữ hoàng chỉ có tính chất tượng trưng. Ngoài ra, Nữ hoàng là nguyên thủ quốc gia của 16/54 nước thuộc Khối thịnh vượng chung. Năm 2012, Nữ hoàng Elizabeth Đệ nhị kỷ niệm 60 năm trị vì của mình.
2. Cơ quan lập pháp: Quốc hội Anh gồm 3 thành phần: Vua (hay Nữ hoàng), Thượng viện và Hạ viện, và cả ba thành phần chỉ họp chung trong những sự kiện đặc biệt (như khi Nữ hoàng khai mạc Quốc hội mới) và chỉ mang ý nghĩa tượng trưng. Mỗi viện đều có các uỷ ban đảm nhiệm các công việc khác nhau. Hạ viện là cơ quan duy nhất được dân bầu và trên thực tế là cơ quan lập pháp chủ yếu.
- Thượng viện (House of Lords): Còn gọi là Viện Nguyên lão, hiện có 788 nghị sỹ, nhiệm kỳ 5 năm, gồm các Thượng nghĩ sỹ cha truyền con nối có dòng dõi quý tộc và Hoàng gia, Thượng nghị sỹ là những chức sắc quan trọng của Giáo hội Anh, và những chính khách có công lao lớn với đất nước. Chính phủ hiện đang tiến hành cải cách Thượng viện theo hướng xoá bỏ chế độ cha truyền con nối, thay vào đó là cử những người có công với đất nước được Nữ hoàng phong cấp.
- Hạ viện (House of Commons): Là Cơ quan lập pháp gồm 650 nghị sỹ, được bầu theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, nhiệm kỳ 5 năm. Chức năng chính là thông qua các đạo luật, chủ trương, chính sách lớn về kinh tế, xã hội, chính trị đối nội và đối ngoại, giám sát hoạt động của chính phủ. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, Đảng Bảo thủ và Công Đảng thay nhau chiếm đa số trong Hạ Viện. Tuy nhiên, sau bầu cử ngày 6/5/2010, do không có đảng phái nào chiếm đa số tuyệt đối, lần đầu tiên trong 70 năm, Anh có chính phủ liên minh giữa Đảng Bảo thủ và Đảng Dân chủ Tự do. Đảng Bảo thủ chiếm 306 ghế, Công đảng chiếm 258 ghế và Đảng Dân chủ Tự do chiếm 57 ghế tại Hạ viện. Ngoài ra còn các đảng nhỏ khác như Đảng Dân chủ Hợp nhất, và các đảng mang tính chất địa phương như đảng Plaid Cymru ở Xứ Uên, đảng Quốc gia Scốt ở Scotland, đảng Sinn Fein ở Bắc Ai-len... chiếm 28 ghế.
3. Cơ quan hành pháp:
- Thủ tướng: do Nữ hoàng bổ nhiệm và được Hạ viện thông qua. Chức năng chính là điều hành nội các, kiến nghị cho Nữ hoàng bổ nhiệm các giám mục và quan toà. Thủ tướng có quyền, được sự đồng ý của Nữ Hoàng, tuyên bố giải tán Quốc hội và định ngày tuyển cử Quốc hội.
- Nội các: Khoảng 22-23 thành viên do Thủ tướng chỉ định và Nữ Hoàng phê duyệt, bao gồm các Bộ trưởng các Bộ. Chức Quốc Vụ khanh tương đương với chức Thứ trưởng của Việt Nam.
IV. Kinh tế:
Kinh tế Anh là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, chủ yếu dựa vào khu vực kinh tế tư nhân (chiếm 80% sản lượng và 75% lao động). Trong những năm 80, dưới thời Thủ tướng M. Thatcher, Anh đi đầu các nước phương Tây trong việc tư nhân hóa doanh nghiệp nhà nước.
Hiện Anh là nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới (thứ 2 trong EU sau Đức) với GDP năm 2011 đạt 2.481 tỷ USD, GDP trên đầu người năm 2011 đạt 35.900 USD. Anh nổi bật là một trong những nền kinh tế toàn cầu hoá nhất thế giới, với chính sách tự do thương mại, chống bảo hộ (tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Anh năm 2010 hơn 900 tỷ USD). Anh là thành viên quan trọng của các tổ chức kinh tế như OECD, WTO... Thành phố Luân Đôn là một trong những trung tâm tài chính quan trọng nhất thế giới cùng với New York và Tokyo.
Trong giai đoạn 1990 – 2007, nền kinh tế đã duy trì được tốc độ tăng trưởng tương đối cao so với các nước EU, trung bình đạt 6,1% (so với Pháp là 4,3% và Đức là 3,9%); thất nghiệp thấp khoảng 5%; lạm phát thấp ở mức 2% và ổn định nhất kể từ năm 1959 cho đến trước khủng hoảng tài chính – kinh tế toàn cầu 2008-09. Các ngành kinh tế mũi nhọn: ngân hàng, tài chính, bảo hiểm; sản xuất thép, đóng tàu, khai thác than; các ngành công nghiệp hoá chất, điện tử; viễn thông, công nghệ cao; dệt, may mặc. Do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu, năm 2009, kinh tế Anh giảm đáng kể -4,75%. Hiện nay, kinh tế Anh tiếp tục gặp khó khăn do tác động của cuộc khủng hoảng đồng euro và các nền kinh tế đang phát triển tăng trưởng chậm lại. Năm 2012, kinh tế Anh dự kiến giảm -0,1% và chỉ tăng trưởng 1,2% năm 2013. Tỉ lệ nợ công hiện ở mức cao, chiếm 67% GDP.
1. Thương mại:
Thương mại của Anh đứng thứ 6 thế giới (sau Mỹ, Đức, Trung Quốc, Pháp và Nhật Bản) với xuất khẩu 405 tỉ USD và nhập khẩu đạt 546 tỉ USD (2011). Thương mại có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân (xuất khẩu chiếm khoảng 20% GDP); thị trường chủ yếu là EU, chiếm 53% tổng xuất khẩu và 52% tổng nhập khẩu của Anh, sau đó đến Mỹ, Nhật, Trung Quốc. Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của Anh tính theo đầu người cao hơn Mỹ và Nhật. Hàng xuất chủ yếu gồm sản phẩm dịch vụ, công nghiệp chế tạo, chất đốt, hoá chất, lương thực, đồ uống, thuốc lá trong khi hàng nhập khẩu chủ yếu gồm nguyên nhiên liệu, sản phẩm công nghiệp chế tạo, lương thực.
2. Đầu tư:
Anh nằm trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất thế giới. Tổng đầu tư của Anh năm 2011 là khoảng 300 tỉ USD (14% GDP); đứng thứ 5 thế giới về đầu tư ra nước ngoài, chiếm khoảng 6,5% tổng đẩu tư của thế giới và đứng thứ 2 thế giới về nhận đầu tư nước ngoài, chiếm 11,5% tổng đầu tư thế giới.
3. Hợp tác phát triển:
Bộ Phát triển Quốc tế (DFID) được thành lập năm 1999 chịu trách nhiệm thực hiện chính sách cung cấp viện trợ, chủ yếu tập trung thực hiện các mục tiêu phát triển quốc tế trong đó có sự cam kết của Anh như xoá đói giảm nghèo, tăng cường năng lực chính phủ, quyền con người, phát triển phụ nữ, y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường, phòng ngừa xung đột, cứu trợ thiên tai. Viện trợ của Anh chủ yếu được thực hiện qua hai kênh: một nửa viện trợ thông qua các tổ chức quốc tế (chủ yếu là các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc, Ủy ban Châu Âu và Ngân hàng Thế giới), nửa còn lại thông qua kênh song phương. Quỹ dành cho viện trợ phát triển liên tục tăng: 2,06 tỷ Bảng Anh cho 1997-1998 ; 3,04 tỷ cho 1999-2000 ; 3,3 tỷ cho 2002-2003 ; 3,7 tỷ cho 2003-2004 ; 4,6 tỷ 2005-2006 ; 5 tỷ cho 2007-2008 ; 6,5 tỷ cho 2009-2010. Phân bổ viện trợ tập trung vào các nước nghèo ở châu Á và tiểu Sahara (khoảng 76%). Tại các nước Trung và Đông Âu, Anh chỉ viện trợ cho các dự án nhỏ chủ yếu theo định hướng và nhằm tác động đến quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường.
V. Chính sách đối ngoại:
Anh có chính sách đối ngoại mang tính toàn cầu. Anh là Uỷ viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, thành viên quan trọng trong NATO, thành viên EU, thành viên G8, đứng đầu Khối Thịnh Vượng chung gồm 54 nước (chủ yếu là những nước thuộc địa cũ của Anh), và là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế quan trọng khác, có tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế. Anh có quan hệ ngoại giao với 165 nước.
Mục tiêu chính sách đối ngoại của Anh hiện nay:
- Ưu tiên đối ngoại hàng đầu là củng cố và phát triển quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ trong đó NATO là hạt nhân quan trọng;
- Phát triển quan hệ với EU nhưng không đối trọng với Mỹ, tăng cường ảnh hưởng và sự lãnh đạo của Anh tại châu Âu, phát huy vai trò cầu nối giữa châu Âu và Mỹ;
- Tăng cường quan hệ với các nền kinh tế với nhóm BRIC; đẩy mạnh hợp tác với các nước vùng Vịnh và Trung Đông;
- Tăng cường sức mạnh Khối Thịnh vượng chung;
- Phát huy vai trò của Liên Hợp quốc trong các hoạt động gìn giữ an ninh và hoà bình, phát triển quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia, hợp tác quốc tế trong các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo mang tính toàn cầu, và bảo vệ nhân quyền;
- Đi đầu trong các vấn đề bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Gần đây, Anh bắt đầu đẩy mạnh quan hệ với các nước ASEAN và châu Á, khu vực trước đây Anh chưa mấy chú trọng. Một mặt, Anh có nhu cầu củng cố vai trò và vị trí của mình tại các thuộc địa cũ trong khu vực trước ảnh hưởng ngày càng lớn của Trung Quốc, mặt khác Anh thực sự thấy lợi ích trong phát triển quan hệ hợp tác kinh tế với khu vực này./.
TÓM TẮT QUAN HỆ
VIỆT NAM – LIÊN HIỆP VƯƠNG QUỐC ANH VÀ BẮC-AILEN
I. QUAN HỆ CHÍNH TRỊ:
Việt Nam và Anh thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ ngày 11/9/1973. Tuy nhiên, quan hệ hai nước chỉ thực sự phát triển thực chất từ giữa thập kỷ 90. Hợp tác đầu tiên giữa hai nước là giải quyết vấn đề hồi hương người Việt Nam ra đi bất hợp pháp từ các trại tị nạn ở Hồng Kông.
Chuyến thăm chính thức Anh của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tháng 5/2004 và của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An tháng 3/2005 đánh dấu một mốc phát triển quan trọng trong quan hệ hai nước. Tháng 3/2007, lần đầu tiên Thủ tướng Anh Tony Blair đã cử Đặc phái viên Thủ tướng, Thượng Nghị sỹ Charles Powell, sang Việt Nam trao thư của Thủ tướng Anh cho Thủ tướng Việt Nam, trong thư nêu bật sự hài lòng của phía Anh về sự phát triển tốt đẹp cũng như mong muốn tăng cường hơn nữa quan hệ Anh và Việt Nam trong thời gian tới.
Tháng 3/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm chính thức Anh theo lời mời của Thủ tướng Gordon Brown, trong bối cảnh quan hệ hai nước đang phát triển nhanh chóng đồng thời là năm diễn ra sự kiên quan trọng kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Trong chuyến thăm, hai Thủ tướng đã ra Tuyên bố chung khẳng định thúc đẩy quan hệ hai nước đi vào chiều sâu, hiệu quả và ổn định theo hướng “Quan hệ Đối tác vì sự phát triển” dựa trên 5 trụ cột chính (1) chính trị-ngoại giao, (2) thương mại-đầu tư, (3) hợp tác phát triển, (4) giáo dục-đào tạo và (5) di cư và chống tội phạm có tổ chức.
Tháng 9/2010, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm thăm chính thức Anh. Nhân dịp này, hai nước ký Tuyên bố chung chính thức nâng cấp quan hệ Việt Nam - Anh lên Đối tác chiến lược với 7 lĩnh vực hợp tác chủ yếu là (1) chính trị-ngoại giao, (2) các vấn đề toàn cầu và khu vực, (3) thương mại-đầu tư, (4) hợp tác phát triển kinh tế-xã hội bền vững, (5) giáo dục-đào tạo, (6) an ninh-quốc phòng và (7) giao lưu nhân dân.
Ngày 26/1/2011, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Quốc Cường và Đại sứ Anh tại Hà Nội Antony Stokes đã ký “Kế hoạch hành động Việt Nam – Anh năm 2011” nhằm triển khai cụ thể Tuyên bố chung về Đối tác chiến lược Việt Nam – Anh. Kế hoạch hành động năm 2012 được ký ngày 27/3/2012 tại London.
Tháng 26/10/2011, hai bên đã tiến hành Đối thoại chiến lược Việt Nam – Anh lần thứ nhất tại London nhằm trao đổi các vấn đề an ninh – chiến lược quốc tế và khu vực hai bên cùng quan tâm. Đối thoại chiến lược lần 2 diễn ra tại Hà Nội ngày 5/7/2012.
Về hợp tác trên diễn đàn quốc tế và khu vực, hai bên đã có sự hơp tác chặt chẽ và hiệu quả trong thời gian Việt Nam là thành viên không thường trực HĐBA/LHQ khóa 2008-2009, trong khuôn khổ ASEM và quan hệ hợp tác đối tác ASEAN – EU.
Trong những năm qua, hai bên đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao, nổi bật là:
- Phía ta : Thủ tướng Võ Văn Kiệt (1993); Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (1994); Thủ tướng Phan Văn Khải dự ASEM-2 và thăm Anh (1998); Phó Thủ tướng Vũ Khoan (2003); Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên (2003); Chủ tịch nước Trần Đức Lương (5/2004); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (3/2005); Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng (3/2008); Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng (4/2009); Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chung Lưu (7/2009); Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải (10/2009); Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân (3/2010), Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm (9/2010), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng (12/2011), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (dự kiến tháng 1/2013).
- Phía Anh: Công tước Xứ York - Hoàng tử Andrew (1999, 2006, 2008, 2009 và 10/2010); Công chúa Anne (1995 và 2002); Phó Thủ tướng John Prescott (2001 và 2004); Ngoại trưởng Anh (1995); Bộ trưởng Bộ Kinh doanh, Doanh nghiệp và Cải cách thể chế John Hutton (06/2008), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Jack Straw (9/2008); Thứ trưởng Thường trực BNG Anh Peter Ricketts (13/1/2009); Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Bill Rammell dự ASEM FMM-9 (5/2009); Thị trưởng Khu Tài chính London (7/2009, 3/2011, 9/2012), Quốc Vụ khanh Bộ Phát triển Quốc tế Alan Duncan (6/2010, 5/2011), Quốc Vụ khanh BNG Anh Jeremy Browne (4/2011; 7/2012); Nhóm Nghị sĩ Anh – Việt (9/2011), BTNG Anh William Hague (4/2012), Cựu Thủ tướng Anh Tony Blair (10/2012).
II. QUAN HỆ HỢP TÁC KINH TẾ:
1. Thương mại:
Quan hệ thương mại Việt Nam và Anh tăng nhanh từ những năm 90 đến nay. Chính sách thương mại của Anh tương đối cởi mở, không theo chủ nghĩa bảo hộ. Trong các vấn đề tranh chấp thương mại giữa ta và EU (vụ kiện bán phá giá, vụ hải sản nhiễm kháng thể, vấn đề GSP, giày mũ da), Anh thường có lập trường ủng hộ Việt Nam. Anh cũng ủng hộ Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) và Quy chế kinh tế thị trường.
Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam sang Anh tăng trung bình 17%/năm, ta liên tục xuất siêu. Những mặt hàng xuất chủ yếu : giày dép (53%), dệt may (12%), chè và cà phê (8%), gạo (8%), thuỷ sản (3%), cao su… Những mặt hàng nhập khẩu chủ yếu từ Anh: hàng gia công chế biến và thiết bị công nghiệp (38%), hoá chất (21%), thiết bị viễn thông (6%), thuốc lá (3%)… Kim ngạch thương mại song phương năm 2011 đạt hơn 3 tỷ đô-la, tăng khoảng 40% so với cùng kỳ năm trước.
Trao đổi thương mại Việt Nam - Anh (đơn vị : triệu USD)
Năm |
2006 |
2007 |
2008 |
2009 |
2010 |
2011 |
10T2012 |
Kim ngạch hai chiều |
1620 |
1668 |
1966 |
1750 |
2170 |
3044 |
2843 |
Xuất khẩu sang Anh |
1179 |
1431 |
1580 |
1330 |
1681 |
2398 |
2396 |
Tăng |
16.1% |
21% |
10.4% |
-15.5% |
26% |
42% |
|
Nhập khẩu từ Anh |
201,3 |
237 |
386 |
420 |
511 |
646 |
447 |
Tăng |
10.4% |
17.7% |
62.8% |
10% |
21% |
17% |
|
Nguồn: Bộ Công Thương
Hiện Anh có 138 văn phòng đại diện thương mại thường trú và chi nhánh kinh doanh tại Việt Nam. Năm 1998, Anh thành lập Hiệp hội doanh nghiệp Anh tại Việt Nam (BBGV) nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế với Việt Nam và các hoạt động từ thiện tại Việt Nam.
Ngày 19/7/2007, hai bên đã ký thoả thuận thành lập Uỷ ban hỗn hợp về kinh tế và thương mại (JETCO) nhằm đề ra các biện pháp thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư song phương. Các phiên họp diễn ra luân phiên tại Hà Nội và London: Phiên họp đầu tiên diễn ra ngày 19/7/2007 tại Hà Nội, và phiên gần đây nhất diễn ra ngày 3/11/2011 tại Hà Nội.
Tháng 11/2011, Anh tuyên bố thành lập Hội đồng Kinh doanh Anh – ASEAN nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương mại giữa Anh với các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam.
2. Đầu tư:
a. Đầu tư của Anh tại Việt Nam: Các công ty Anh vào Việt Nam sớm (1988-89) nhưng thời gian đầu chủ yếu tập trung vào lĩnh vực dầu khí (70% tổng đầu tư). Cho đến nay, đầu tư của Anh đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực mới như ngân hàng, tài chính, công nghiệp chế tạo, dịch vụ, may mặc... Nhìn chung các dự án đầu tư của Anh có quy mô vừa và nhỏ, tập trung vào các lĩnh vực khai khoáng với 7 dự án, tổng số vốn đầu tư là 715,6 triệu USD; tiếp theo là lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo với 55 dự án, tổng vốn đăng ký là 714,4 triệu USD, chiếm 32,2% vốn đăng ký; đứng thứ ba là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 548 triệu USD vốn đăng ký, chiếm 25,3% và các lĩnh vực ngân hàng, dịch vụ tài chính và bảo hiểm.
Các nhà đầu tư Anh có mặt tại 17 địa phương trong cả nước và trong các dự án dầu khí ngoài khơi. Dẫn đầu về thu hút vốn đầu tư của Anh là các dự án dầu khí ngoài khơi với 712,6 triệu USD (chiếm 33%), tiếp theo là Đồng Nai có 10 dự án với tổng số vốn đăng ký là 598,17 triệu USD (chiếm 27,8%), còn lại là các địa phương khác.
Ngày 1/8/2002, Việt Nam và Anh đã ký Hiệp định về Bảo hộ và Xúc tiến Đầu tư giữa 2 nước.
Tính đến hết tháng 11/2012, Anh có 162 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký là 2,7 tỷ USD (đứng thứ 3 trong các nước EU, sau Hà Lan và Pháp và đứng thứ 18/96 trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam). Ngoài ra, các công ty Anh thuộc British Virgin Island đã đầu tư vào Việt Nam với số vốn khoảng 3 tỷ đô-la.
Nhân chuyến thăm Anh của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân (9-11/3/2010), hai bên đã ra Tuyên bố chung về phát triển mô hình Hợp tác Công – Tư tại Việt Nam, nhất là trong thu hút đầu tư cho các dự án phát triển hạ tầng cơ sở tại Việt Nam trong thời gian tới.
Các công ty lớn có mặt tại Việt Nam: Công ty dầu khí BP, nhôm BHP Billiton, động cơ máy bay Rolls-Royce, viễn thông Vodafone, vận tải P&O, hoá chất dược GlaxoSmithKline, các ngân hàng HSBC, Standard Chartered, bảo hiểm Prudential. Ngân hàng Standard Chartered Bank và Ngân hàng HSBC là hai ngân hàng 100% vốn nước ngoài đầu tiên được thành lập tại Việt Nam.
b. Đầu tư của Việt Nam sang Anh: Tính đến nay, các doanh nghiệp Việt Nam đã có 2 dự án đầu tư sang Anh với tổng vốn đầu tư là 500.000 USD. Trong đó có 1 dự án trong lĩnh vực dịch vụ của Cty Vải Thuận Kiều để trưng bày và quảng bá sản phẩm Việt Nam và Liên hiệp Hàng hải Việt Nam đầu tư làm dịch vụ đại lý Hàng hải; 1 dự án của Công ty Đầu tư và phát triển chè mở đại lý tiêu thụ chè tại London.
III. HỢP TÁC PHÁT TRIỂN:
Năm 1994, Chính phủ Anh bắt đầu chính thức cung cấp ODA cho Việt Nam, bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại về hỗ trợ kỹ thuật và tín dụng ưu đãi.
Tháng 8/1999, Bộ Phát triển Quốc tế Anh (DFID) đã thiết lập Văn phòng Hỗ trợ Chương trình Việt Nam (PSO) tại Hà Nội, nay gọi là Văn phòng DFID Việt Nam.
Giai đoạn 1992-1998, Anh đã viện trợ không hoàn lại khoảng 24 triệu Euro cho 20 dự án hỗ trợ kỹ thuật trong các lĩnh vực giao thông, vận tải, năng lượng, dầu khí, xây dựng, giáo dục… Cho đến nay, các dự án này đã được thực hiện xong và có nhiều đóng góp thiết thực cho phát triển kinh tế-xã hội của ta trong các lĩnh vực trên.
Từ năm 1999 cho đến nay, DFID chuyển từ tiếp cận theo dự án sang tiếp cận theo chương trình ngành hoặc lĩnh vực trong khuôn khổ phát triển toàn diện (CDF). Do vậy, DFID không xây dựng các dự án hợp tác song phương theo cách làm truyền thống, mà sử dụng hình thức đồng tài trợ hoặc uỷ thác để tham gia tài trợ cho các chương trình/dự án có ưu tiên cao tại Việt Nam nhằm giảm chi phí giao dịch cho Việt Nam và khuyến khích sự phối hợp trong các nỗ lực tập thể giữa các nhà tài trợ với Việt Nam. DFID chủ trương tăng viện trợ không hoàn lại cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Ngân sách viện trợ phát triển Chính phủ Anh dành cho Việt Nam năm tài khóa 2003/2004 là 26 triệu bảng Anh, năm 2004-2005 là 37 triệu bảng, năm 2005/2006 là 60 triệu bảng.
Ngày 19/9/2006, hai bên ký Thỏa thuận về Quan hệ đối tác phát triển giữa hai nước giai đoạn 2006-2015. Với Thỏa thuận này, Chính phủ Anh sẽ viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 250 triệu Bảng Anh trong giai đoạn 2006-2010 (bình quân 50 triệu bảng/năm), trong đó dành khoảng 70% ngân sách để hỗ trợ cho các Chương trình liên quan đến giảm nghèo của Việt Nam. Phần còn lại dành cho các lĩnh vực giáo dục, y tế, nước sạch và vệ sinh nông thôn, phòng chống tham nhũng. Với việc hai nước ký Thoả thuận Quan hệ đối tác phát triển giữa Việt Nam và Anh giai đoạn 2006-2015, Anh là nhà tài trợ ODA song phương đầu tiên và đến nay cũng là duy nhất ký Thỏa thuận hợp tác phát triển dài hạn trong 10 năm với Việt Nam.
Thoả thuận có các mục tiêu tổng quát sau:
- Tăng trưởng có lợi cho giảm nghèo và đạt được các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ của Việt Nam.
- Tăng cường công tác quản lý tài chính và trách nhiệm giải trình của nhà nước trước người dân, chống tham nhũng nhằm bảo đảm các nguồn vốn công ích được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả.
- Tôn trọng các thoả ước nhân quyền về quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá mà Việt Nam đã và sẽ tham gia.
Ngoài cung cấp ODA theo các chương trình, DFID còn cung cấp các khoản viện trợ phi dự án nhằm giúp Việt Nam thanh toán các khoản nợ quốc tế để tập trung nguồn lực tài chính cho việc giải quyết các vấn đề phát triển kinh tế xã hội trong nước. Cụ thể: Ngày 22/2/2005, Chính phủ Anh thông qua sáng kiến giảm nợ đa phương, tuyên bố sẽ trả nợ thay cho Chính phủ Việt Nam 10% nợ đến hạn của các khoản vay Hiệp hội Phát triển quốc tế (IDA) thuộc WB trong thời gian 2005-2015 (khoảng 90 triệu USD). Đây là sáng kiến của Anh nhằm vận động các nước G8 và các nhà tài trợ khác cùng tham gia sáng kiến này để tạo điều kiện cho Việt Nam tập trung nguồn lực hơn nữa cho Chương trình XĐGN đang được thực hiện thành công. Ngày 22/11/2007, DFID đã thông báo việc Chính phủ Anh viện trợ không hoàn lại 100 triệu Bảng Anh giai đoạn 2007-2011 cho Chương trình PRSC với phương thức chuyển trực tiếp cho Chính phủ Việt Nam, không thông qua WB để tiết kiệm chi phí quản lý. Tháng 10/2008, Chính phủ đã phê duyệt Thoả thuận giữa Việt Nam và Anh về việc Chính phủ Anh tài trợ cho PRSC 7-10 (2008-2011) với tổng kinh phí là 80 triệu Bảng Anh. Ngày 25/1/2010, Lãnh đạo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và đại diện DFID đã ký Văn bản tài trợ 17 triệu Bảng Anh cho Chương trình mục tiêu quốc gia về Cung cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn trong giai đoạn 2010-2013.
Tháng 8/2010, Việt Nam và Anh đã họp đánh giá giữa kỳ thực hiện Thỏa thuận về Quan hệ đối tác phát triển giai đoạn 2006-2015.
Tháng 5/2011, hai bên ký Văn bản điều chỉnh bổ sung Thỏa thuận Đối tác phát triển Việt Nam – Anh giai đoạn 2011-2016. Tại Văn bản điều chỉnh này, Anh cam kết viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 70 triệu bảng Anh trong giai đoạn 2011 – 2015, mức độ cho năm 2016 sẽ được xác định sau. Trong đó, viện trợ của Anh được ưu tiên tập trung hỗ trợ giúp Việt Nam đạt được: các mục tiêu Thiên niên kỷ về Giáo dục tiểu học, HIV/AIDS; kết hợp các Chương trình vệ sinh môi trường, tăng trưởng có lợi cho tất cả các đối tượng; quản trị nhà nước và biến đổi khí hậu.
Hiện Anh là nhà tài trợ điều phối trong lĩnh vực phòng chống tham những tại Việt Nam (thay cho Thụy Điển).
IV. QUAN HỆ VĂN HÓA – GIÁO DỤC:
Trong những năm qua, hợp tác giữa Việt Nam và Anh trong lĩnh vực giáo dục đào tạo phát triển tích cực. Hàng năm, Chính phủ Anh dành từ 25-30 suất học bổng cho học sinh Việt Nam. Số người Việt Nam nhận học bổng của Chính phủ Anh cho đến nay là trên 600. Hiện có khoảng hơn 7000 sinh viên Việt Nam đang theo học tại các trường của Anh.
Hội đồng Anh (BC) là một tổ chức được Chính phủ Anh uỷ quyền đối với các hoạt động về văn hóa và giáo dục tại Việt Nam. Hội đồng Anh có mặt tại Việt Nam từ cuối 1993, có trụ sở ở Hà Nội và TP HCM. Đến nay Hội đồng Anh đã tổ chức các lớp bổ túc tiếng Anh miễn phí cho trên 1.000 cán bộ của ta, trong đó có hơn 40 cán bộ cấp Thứ trưởng và tương đương. Ngoài ra, thông qua Hội đồng Anh, Chính phủ Anh đã giúp ta đào tạo tiếng Anh và cung cấp nhiều học bổng ngắn hạn cho công chức của ta. Nhân chuyến thăm Việt Nam của Hoàng tử Andrew (10/2009), Thủ tướng Chính phủ đã Quyết định gia hạn hoạt động của Hội đồng Anh tại Việt theo Nghị định số 18/2001/NĐ-CP ngày 04/05/2001 của Chính phủ.
Tháng 3/2008, Việt Nam đã ký với Anh Hiệp định cấp chính phủ về hợp tác giáo dục – đào tạo, hai bên nhất trí sẽ thiết lập từ 40 đến 60 liên kết trường học cấp (phổ thông, trung cấp, đại học) trong 3 năm và cam kết cho phép thành lập trường Apollo tại Việt Nam nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy tiếng anh. Trong chuyến thăm Việt Nam, Hoàng tử Anh Andrew đã chứng kiến Lễ ra mắt trường Đại học Apollo tại Hà Nội (9/2008) và Đại học Anh tại Hà Nội (10/2010).
Tháng 3/2010, nhân chuyến thăm Anh của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, hai bên đã ký Tuyên bố chung trong đó Chính phủ Anh và hệ thống các trường đại học hàng đầu của Anh cam kết ủng hộ Việt Nam thành lập trường đại học công lập đẳng cấp quốc tế Việt – Anh. Hai bên đang tích cực phối hợp triển khai dự án này tại Đại học Đà Nẵng.
Việt Nam và Anh phối hợp tổ chức nhiều hoạt động quảng bá văn hoá, du lịch trên kênh truyền hình BBC và trên hệ thống taxi London; Tuần lễ Văn hoá Việt Nam tại Anh.
V. CÁC LĨNH VỰC KHÁC:
1. Quốc phòng - An ninh:
Tháng 9/1996, Anh cử tuỳ viên quốc phòng đầu tiên tại Việt Nam thường trú tại Malaysia (từ tháng 3/2008 thường trú tại Brunei và từ tháng 5/2011 thường trú tại Singapore). Trong lĩnh vực xuất khẩu sản phẩm quốc phòng (do Bộ Thương mại và Đầu tư Anh quản lý) có 1 đại diện tại Đại sứ quán Anh tại Hà Nội phụ trách. Ta cử Tùy viên Quốc phòng thường trú tại Đức kiêm nhiệm tại Anh. Hiện hai bên đang nghiên cứu, xem xét khả năng mở Văn phòng Tùy viên quốc phòng tại mỗi nước
Từ năm 1996 đến nay, hai bên đã trao đổi một số đoàn quân sự. Về phía Việt Nam thăm Anh có Thứ trưởng Quốc phòng (9/2001, 9/2003 và 11/2011), Phó Tư lệnh các Quân chủng Phòng không-Không quân, Hải quân (1996, 1998, 1999); Phó Tổng Tham mưu trưởng (2004). Phía Anh sang thăm ta có Học viện nghiên cứu quốc phòng (1999, 2001, 2003), Tổng tham mưu trưởng quân đội Anh (3/2004).
Hai bên đã ký kết Bản ghi nhớ về hợp tác Quốc phòng (11/2011) tạo cơ sở thúc đẩy hợp tác hai nước trên các lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, chuyển giao công nghệ, đào tạo...
Những năm gần đây, Bộ Nội vụ Anh và Bộ Công an Việt Nam tăng cường trao đổi các nhiều đoàn thăm viếng cấp cao. Quốc vụ khanh Bộ Nội vụ Anh Des Browne thăm Việt Nam (10/2004), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Anh Jack Straw (9/2008). Phía Việt Nam thăm Anh có Bộ trưởng Bộ Công an Lê Hồng Anh (9/2004, 9/2006), Tổng Cục trưởng Tổng Cục Cảnh sát Trần Văn Thảo (2/2007), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường (6/2008), Bộ trưởng Bộ Nội vụ Trần Văn Tuấn (5/2009), Thứ trưởng thường trực Bộ Công an Đặng Văn Hiếu (11/2011) và Thứ trưởng Tô Lâm (11/2012). Hai bên hợp tác trao đổi thông tin trong lĩnh vực phòng chống tội phạm, khủng bố, nhập cư bất hợp pháp, chương trình đào tạo tiếng Anh cho Bộ Công an Việt Nam.
Hai bên đã ký Bản ghi nhớ về các vấn đề di cư (10/2004), Bản ghi nhớ về đấu tranh phòng chống tội phạm (2006), Hiệp định chuyển giao người bị kết án tù (9/2008), Bản ghi nhớ Hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp (9/2008) và Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự (1/2009) nhằm mở rộng quan hệ hợp tác trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp giữa hai nước.
Hiện nay, hai bên đang tiếp tục đàm phán ký kết Hiệp định về dẫn độ tội phạm và Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và thương mại, Bản ghi nhớ hợp tác về trao đổi thông tin xuất nhập cảnh.
2. Quan hệ lãnh sự - du lịch:
Khách du lịch Anh vào Việt Nam tăng mạnh những năm gần đây, từ 70.000 lượt năm 2004 lên 105.000 lượt năm 2011.
Chính phủ Anh đã quyết định miễn thị thực quá cảnh cho cán bộ của Việt Nam mang hộ chiếu ngoại giao và công vụ.
VI. DÂN CHỦ NHÂN QUYỀN:
Dân chủ, nhân quyền là một trụ cột quan trọng trong chính sách của EU và trong quan hệ đối ngoại với các nước, đồng thời là một trong những ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Anh. Hợp tác trong lĩnh vực dân chủ nhân quyền đối với Anh chủ yếu được thực hiện thông qua kênh Đối thoại nhân quyền hàng năm giữa Bộ Ngoại giao Việt Nam và EU. Hàng năm Bộ Ngoại giao Anh ra Báo cáo nhân quyền, trong đó kể từ năm 2007 có đề cập đến Việt Nam. Các quan tâm chính của Anh đối với Việt Nam là vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí và quyền tiếp cận thông tin, các trường hợp được quan tâm, án tử hình...
VII. CỘNG ĐỒNG NGƯỜI VIỆT NAM:
Cộng đồng người Việt Nam tại Anh hình thành từ đầu thập kỷ 40 thế kỷ XX; hiện có khoảng 40.000 người, nhìn chung sống hoà nhập, ổn định, 90% sống tập trung tại các thành phố lớn: London 20.000 người, Birmingham 10.000 người, Manchester 8.000 người...
VII. CÁC HIỆP ĐỊNH HAI BÊN ĐÃ KÝ KẾT:
Việt Nam và Anh đã ký hầu hết các hiệp định khung như Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định về Bảo hộ và Xúc tiến Đầu tư….
VIII. ĐỊA CHỈ LIÊN HỆ:
- Địa chỉ Đại sứ quán Việt Nam tại Anh:
12-14 Victoria Road, London W8 5RD
Tel: + 44(0) 20 79371912, Fax: +44(0) 20 75653853
Email: vanphong@vietnamembassy.org.uk
- Địa chỉ Đại sứ quán Anh tại Việt Nam:
31 Hai Bà Trưng, Hà Nội
Tel: + 84 43 9360500, Fax: + 84 43 9360561
Website: ukinvietnam.fco.gov.uk
Tháng 12/2012